Được tạo bởi Blogger.
Thứ Năm, 25 tháng 12, 2014
Vịn Thơ... Đi Tới
Đầu năm 1, ban cán sự lớp đi gom sơ yếu lý lịch, phải cười bật ngửa, khi thấy tờ khai: “Tôi sinh ra ở một ngôi làng miền Trung, nhà tôi bị cháy đi cháy lại nhiều lần do giặc càn quét”.
Tra ra, nhân vật “thi hóa” lý lịch đó là Phạm Ánh, chuyển qua từ lớp dự bị. Anh còn gây chú ý vì cụt một chân, nách bên chân cụt kẹp cái nạng tre, còn cánh tay rảnh bên kia thường xuyên bốc khói với một điếu thuốc rê tổ bố.
Hóa ra anh là nhà thơ... thứ thiệt. Sáng tác chép đầy cả mấy cuốn sổ tay. Anh thường bỏ học ra đồi Cù (hồi đó chưa bị làm sân golf), ngồi dưới gốc thông nhả khói lên trời... làm thơ.
Suốt bốn năm đại học, Phạm Ánh chỉ có một cuốn tập duy nhất chép bài giảng và thơ xen kẽ với bốn chữ ngoài bìa rất ấn tượng: “Phạm Ánh toàn tập”. Đề từ cho “toàn tập” ấy ở trang đầu còn dữ dội hơn: “Sương gió cuộc đời không làm bạc nổi một cọng râu của tao”. Rất khinh bạc nhưng sao phải gồng lên như vậy? Rõ ràng anh đã có một dự cảm âu lo.
Hồi ấy, lớp tôi có 38 người chia đều ra 19 nam, 19 nữ. Bọn con trai gắn bó nhau đến mức “ăn chung một mâm, ngủ chung một giường, yêu chung một cô”, chia nhau từng chút thuốc rê, kem đánh răng, xà phòng dầu dừa... Đến kỳ nhận học bổng, kéo ra đồi Cù đá bóng. 19:2 thừa ra một người khá hợp lý là “nhà thơ Phạm Ánh”. Hợp lý là bởi phải có người vừa giám sát trận đấu, vừa làm khán giả hò hét, vừa gom quần áo giùm cho cầu thủ.
Vào đời, chúng tôi mới nhận ra cái sự thừa ra hợp lý ấy trở thành khiếm khuyết lớn nhất trong đội hình của mình. Lần lượt ai cũng có công ăn việc làm. Chỉ mỗi Phạm Ánh thất nghiệp, phải về quê nhà ở với mẹ già và đứa em trai. Và... tiếp tục làm thơ.
Năm tháng đi như gió thổi. Trong những cuộc rượu hội ngộ, bạn bè đều chạnh lòng khi nhắc đến anh. Cả bọn bàn sẽ gom thơ anh in một tập. Rồi thì đưa ra “nghị quyết” nếu đứa nào làm trưởng một cơ quan dù cấp nào, phải nhận anh vào làm văn thư hay thường trực gì đó. Chúng tôi sợ sẽ mất Phạm Ánh nếu anh không làm thơ nữa.
Thế rồi thơ chưa kịp in, cũng chưa có đứa nào thành sếp thì thật tuyệt vời: anh báo tin lấy vợ. Anh đã vào làm ở cơ sở khuyết tật Nguyễn Nga (Qui Nhơn) và gặp vợ anh cùng cảnh ngộ ở đấy. Bạn bè tôi từ Đà Lạt tụ về Tuy Hòa chất đầy nghẹt một xe chạy ra Phù Cát, rồi chạy vào Qui Nhơn. Đám cưới anh tổ chức ở cả hai nơi, có sự giúp đỡ của Hội Những người khuyết tật, thật tưng bừng và cảm động.
Cưới vợ xong, anh in tập thơ đầu tay (chẳng cần chúng tôi giúp như dự tính). Mừng hơn, đầu năm nay anh được nhận vào làm ở Hội Văn học nghệ thuật Bình Định. Bạn bè hay tin có đứa bình luận: “Đúng 15 năm sau ngày ra trường, Phạm Ánh đã đặt một chân (thật sự một chân) vào cơ quan nhà nước”.
Trên tập thơ anh, ông họa sĩ nào đó vẽ hình người chống nạng, bóng cái nạng đổ dài xuống như những nấc thang hay một cây cầu mà con người ta phải đi qua đó vậy. Tôi nghĩ anh đã đi qua đó, không chỉ nhờ chiếc nạng gỗ mà nhờ cả thơ và tình yêu.
“Tôi không may số phận tật nguyền - Đôi tay nhỏ xin làm đôi chân bước - Bao lo toan giữa cuộc đời xuôi ngược - Một chút tình người cũng hóa linh đơn”. Và linh đơn thần diệu nhất là tình yêu của chị Tuyết dành cho anh: “Năm tháng vươn lên từ đôi nạng gỗ - Thấp thoáng tiếng cười bên vạt áo em đan”.
Nguyễn Ngọc Hiếu
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 comments:
Đăng nhận xét